Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Sự tích mẫu thoải

Sự Tích Mẫu Đệ Tam

Thánh Mẫu (Bà Chúa) Thoải Phủ. Bà vốn là con Vua Bát Hải Long Vương Thủy Quốc Động Đình, theo lời Vương Phụ, bà kết duyên cùng Kính Xuyên (là con Vua Đất). Một buổi, Kính Xuyên đi vắng, tiểu thiếp Thảo Mai tìm cách giả đồ thư để hãm hại cho bà. Kính Xuyên mù quáng, nghe lời Thảo Mai vu cho bà thất tiết, đem đóng cũi, bỏ lên rừng cho thú dữ ăn thịt.

Mẫu Đệ Tam Thoải Cung

Thánh Mẫu (Bà Chúa) Thoải Phủ. Bà vốn là con Vua Bát Hải Long Vương Thủy Quốc Động Đình, theo lời Vương Phụ, bà kết duyên cùng Kính Xuyên (là con Vua Đất). Một buổi, Kính Xuyên đi vắng, tiểu thiếp Thảo Mai tìm cách giả đồ thư để hãm hại cho bà. Kính Xuyên mù quáng, nghe lời Thảo Mai vu cho bà thất tiết, đem đóng cũi, bỏ lên rừng cho thú dữ ăn thịt. Tại nơi rừng sâu bà không những được thú rừng yêu quý, mang vật quả đến dâng mà còn tình cờ gặp được nho sĩ Liễu Nghị. Cảm thương trước nỗi oan của bà, Liễu Nghị theo lời ngỏ, mang thư của bà về đến Hồ Động Đình, kể hết sự tình về cho vua cha. Sau đó vua cha sai người đi đón và bà được minh oan, rồi kết duyên cùng Liễu Nghị, còn Kính Xuyên và Thảo Mai thì bị trừng phạt. Sau này, theo một số câu chuyện, bà thường hiển linh, phù hộ cho những người đi biển khỏi sóng to gió lớn nên được nhân dân biết ơn và lập đền thờ ở khắp nơi cửa sông, cửa biển. 

Khi ở chốn Động Đình bà vốn là con vua cha Bát Hải nên được gọi là: “Động Đình Trung Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ”, sau này bà còn có danh hiệu: “Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ Công Chúa”.Vậy nên trong văn thỉnh Đức Thánh Mẫu cũng có hát rằng: 


“Thỉnh mời Đệ Tam Thánh Tiên 
Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung 
Kính Xuyên sớm kết loan phòng 
Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan 
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian 
Vàng mười nỡ để lầm than sao đành 
Lòng trời thương kẻ ngay lành 
Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…”

Đền thờ Mẫu Thoải có khá nhiều nhưng hầu hết đều do lòng thành kính của nhân dân hoặc do nơi cửa sông cửa biển chứ hầu như không có dấu tích của Mẫu vì Mẫu không giáng trần. Nổi tiếng nhất có Đền Mẫu Thác Hàn Sơn ở huyện Hà Trung, Thanh Hóa, nơi bến Đò Lèn, còn có Đền Mẫu Thoải ở thị xã Lạng Sơn, gần sông Kì Cùng, và có ngôi đền ở bến sông Hồng, gần cầu Chương Dương, Gia Lâm cũng tên là Đền Mẫu Thoải hay còn gọi là Đền Cửa Sông

Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

Thánh Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn - La Bình công chúa

Bài viết : Trí Minh
Lâm Cung Thánh Mẫu hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn là một trong ba vị mẫu được thờ cúng tại điện Mẫu, cạnh đình, chùa của người Việt, chủ yếu ở miền bắc và miền trung Việt Nam. Bà được tạc thành hình một phụ nữ đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp và mang trang phục màu xanh khi được đặt cùng hai vị mẫu kia là Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện. Việc thờ phụng Mẫu Thượng Ngàn là một đặc điểm của tín ngưỡng gắn liền với núi rừng của người Việt. Bà là một nhân vật mang tính truyền thuyết và đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng tam phủ hay tứ phủ.

Truyền thuyết

Bà là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương (trong truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh cả hai cùng cầu hôn Mỵ Nương, con gái vua Hùng). Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình.

Học tập

La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, ông đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước v.v. hay dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh. Ông cũng thường cùng các vị sơn thần, tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc. Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc.

Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với mọi người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc ...

Cai quản
Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam.

Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau, dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét ...

Bà dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi.

Bà cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha bà mới chỉ là bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết chạm trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn, chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới. Rồi công việc đồng áng, bà dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm. Trong các con vật nuôi trong nhà, bà đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về ...

Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ. Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của công chúa Thượng Ngàn.

Cùng với nhiều vị thần thánh khác, công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính.


Phù hộ

Người ta cho rằng các chiến công quân sự của nhiều triều đại Việt Nam đều có sự phù hộ của bà. Vì thế, các triều đại này, sau khi thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho bà là công chúa.

Một truyền thuyết cho rằng hồi đầu thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì quân Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi. Trong đêm tối, công chúa Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của bà, chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn thấy.

Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của công chúa Thượng Ngàn, quân đội của Lê Lợi vẫn ngày một thêm lớn mạnh. Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải chịu rút về. Từ Chí Linh, quân Lê Lợi tiến vào giải phóng Nghệ An, Thuận Hóa. Sau đó, với những trận thắng oanh liệt ở Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng và cuối cùng, bao vây quân Minh ở Đông Quan để kết thúc cuộc chiến, lập lại hòa bình cho nước Việt.

Thờ phụng :

Công chúa Thượng Ngàn, cũng như nhiều vị thần thánh khác, được nhiều người tôn thờ, và được coi là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên. Bà có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của dân chúng, khi ở miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng. Vì vậy, ở nhiều nơi người dân lập điện thờ, thờ phụng bà. Tuy nhiên, đại bản doanh của bà vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn được bình yên, vạn sự tai qua nạn khỏi, thường đến cầu xin sự che chở, phù trợ của bà. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được bà chấp thuận.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

Lục Bộ Tướng Thánh Nhà Trần

Đông A Điện Súy Thượng Tướng Quân - Quan Nội Hầu - Vạn Tuế Thượng Đẳng Phúc Thần Phù Ủng Đại Vương




PHẠM NGŨ LÃO
 

Cuộc Đời


Phạm Ngũ Lão , người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào,Phủ Thượng Hồng (nay là làng Phù Ủng ,xã Phù Ủng, huyện Ân Thi ,tỉnh Hưng Yên).Ông sinh năm 1255, trong một gia đình làm nghề nông, mồ côi cha khi mới lên 5 tuổi. Từ nhỏ ông đã tỏ ra nhanh lẹ, có sức khỏe và chí khí hơn người . Tương truyền, năm ông 13 tuổi, có người trong làng đỗ đạt làm quan thiết đãi cả làng trong 3 ngày , nhưng ông không đến, vẫn say sưa ôn luyện bài vở, luyện tập võ nghệ, với ý nghĩ người ta làm nên công danh sự nghiệp vẻ vang cho làng xóm, còn mình chưa làm nên công cán gì cho làng,nên cảm thấy nghẹn lòng.

Nhà Phạm Ngũ Lão ở gần đường cái, thường ngày ông vẫn ngồi bên đường chẻ tre, vót nan, đan sọt,suy ngẫm về việc nước, ước ao một ngày được đem sức giúp nước, phỉ trí làm trai. Rồi một hôm khắp vùng xôn xao chuyện Hưng Đạo Vương từ Vạn Kiếp trẩy quân qua Phù Ủng để về Thăng Long. Phạm Ngũ Lão trằn trọc suốt đêm không ngủ. Có phải đây là dịp cho mình tìm được chủ tướng hay không?

Sáng hôm sau, Phạm Ngũ Lão dậy thật sớm, đẵn một cây tre to, vác dao ra đường cái quan ngồi đợi sẵn. Tiền quân của Trần Quốc Tuấn do con trai Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng chỉ huy đi trước dẹp đường, thấy Phạm Ngũ Lão bèn quát đuổi. Ông vẫn ngồi im, hiển nhiên đan, vót, như không nghe thấy gì.Quân lính lấy giáo đâm vào đùi, máu chảy ông vẫn không nhúc nhíc. Hưng Đạo Vương tới nơi thấy làm lạ hỏi chuyện; Phạm Ngũ Lão ứng đáp trôi trảy;lại thấy tướng mạo khôi ngô, dũng khí khác thường, biết là người có tài, liền sai lính lấy thuốc rịt vào vết thương rồi cho được theo xe về Kinh đô.

Khi triều đình mở khoa thi võ chọn người cầm quân cấm vệ, Hưng Đạo Vương đã tiến cử Phạm Ngũ Lão với vua, trong kỳ thi ấy ông đã đỗ đầu và được triều đình giao cho trọng trách chỉ huy đội quân cấm vệ-lực lượng tinh nhuệ nhất và bảo vệ nhà vua và kinh thành. Tương truyền vệ sĩ thấy ông xuất thân không thuộc dòng dõi quý tộc nên có ý không phục xin thách đấu. Ông nhận lời xin phép nghỉ ba tháng để luyện thêm võ nghệ. Sau ba tháng khổ công luyện tập không kể đêm ngày từ môn cưỡi ngựa, bắn cung, đánh côn, quyền roi , kiếm pháp…Phạm Ngũ Lão đều thành thạo điêu luyện. Chỉ còn một môn cắp giáo nhảy qua tường hào luyện mãi vẫn chưa vừa ý. Theo gợi ý của mọi người, Phạm Ngũ Lão đắp gò lớn ở ngoài đồng, cho đất vào ống quần dài buộc túm lại rồi nhảy lên, nhảy xuống.Nhờ kiên trì khổ luyện, cuối cùng ông đã thành công. Hết ngày phép trở lại võ đường cùng các vệ sĩ đua tài. Ông sử dụng quyền cước di chuyển nhanh lẹ, khiến cả trăm người không địch nổi, mọi người đều thán phục.

Sự Nghiệp


Tháng giêng năm 1285, quân Nguyên Mông mượn cớ đánh Chiêm Thành xâm lược nước ta. Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương sắp đặt tướng lĩnh quân đội nghênh chiến. Phạm Ngũ Lão được giao nhiệm vụ giữ Vạn Kiếp và chuẩn bị thế trận. Thời gian đầu thế giặc còn mạnh, quân ta rút lui chiến lược, sử dụng chiến tranh du kích để phân tán tiêu diệt giặc. Từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1285, quân ta phản công tiêu diệt hệ thống đồn trại ven sông Hồng giải phóng kinh thành Thăng Long. Phạm Ngũ Lão được củ lên tăng cường cùng các tướng chặn đường rút chạy của giặc. Quân giặc bị tiêu diệt quá nửa.Tướng giặc Lý Quán, Lý Hằng bị bắn chết .Chủ tướng giặc là Thái tử Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát chết. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai toàn thắng.

Sau chiến công của Phạm Ngũ Lão , ông được người con gái yêu của Hưng Đạo Vương là quận chúa Anh Nguyên ngưỡng mộ thầm yêu, trộm nhớ. Biết tình cảm của con gái nhưng hiềm một nỗi , nhà Trần chỉ được gả con trong dòng tộc. Hưng Đạo Vương đã chủ động linh hoạt “đổi” Quận chúa Anh Nguyên từ con đẻ thành con nuôi để tác hợp mối nhân duyên đó. Giải pháp thông minh của vị tổng tư lệnh quân đội triều Trần đã giúp cho cuộc hôn nhân của con gái mình được trọn vẹn, đồng thời thu nhận thêm được một vị tướng tài đức vào gia tộc họ Trần.

Tháng 10 năm 1287, Thoát Hoan lại dẫn bộ binh, kỵ binh và thủy binh chia làm ba mũi xâm lược nước ta một lần nữa.Trước sự kháng cự mãnh liệt của quân dân nhà Trần ,quân Nguyên phải tìm đường rút về nước. Theo sự chỉ huy của Hưng Đạo Vương , Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận tiêu diệt giặc trên đường rút chạy của chúng ở sông Bạch Đằng, quân giặc bị đánh tan tác.Phạm Ngũ Lão tiếp tục truy kích trên đường bộ, trực tiếp đối địch với cánh quân do Thoát Hoan chỉ huy tại Nội Bàng. Quân địch bị tiêu diệt quá nửa. Thoát Hoan một lần nữa phải trà trộn vào đám tàn quân chốn về nước.

Với nhiều công lao trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, năm 1288 vua Trần phong cho Phạm Ngũ Lão là Hạ Phẩm phụng sự, năm 1290 nhà vua phong cho ông làm chỉ huy hữu vệ quân Thánh Dực. Khi đó quân Ai Lao đem hơn một vạn thớt voi cướp phá Châu Hoan , Châu Diễn (thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay). Phạm Ngũ Lão nhận lệnh đi dẹp giặc. Ông chỉ huy quân sỹ chặt tre thành từng khúc, chất đầy hai bên đường. Khi giặc lùa voi xông lên, Phạm Ngũ Lão và quân sĩ cầm gậy tre đánh vào chân voi, voi gầm giống tháo chạy trở lại, dày xéo quân Ai Lao, buộc chúng phải lui binh.

Năm Giáp Ngọ (1294) , Thượng Hoàng đích thân đem quân đi đánh giặc Ai Lao. Tướng tiên phong Trung Thành Vương bị giặc vây kín, Phạm Ngũ Lão đưa quân đến giải vây, đánh bại quân Ai Lao. Vua ban cho Phạm Ngũ Lão Kim Phù.

Năm Đinh Dậu (1297) , quân Ai Lao quấy phá vùng sông Tràng Long ở Nghệ An, Phạm Ngũ Lão đem quân tiến đánh, lấy lại được đất cũ được nhà vua ban cho Vân Phù.

Tháng 10 năm 1298 ông được tấn phong làm Kim nghiêm đại tướng quân ở Hữu Vệ.

Tháng 4 năm 1299, ông lại được tấn phong làm Thân Vệ tướng quân,kiêm cai quản quân Thiên Thuộc ở phủ Long Hưng.

Năm Hưng Long thứ 9 (1301), quân Ai Lao cướp phá Đà Giang , Phạm Ngũ Lão đem quân đánh địch ở Mường Mai, bắt sống nhiều quân địch, được phong Thân Vệ đại tướng quân,vua ban cho Quy phù.

Năm Hưng Long thứ 10 ( 1302 ), Phạm Ngũ Lão đánh dẹp được nghịch thần tên là Biếm, được tiến phong chức Điện Súy và ban Hổ phù.

Tháng 5 năm 1312 vua cùng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Chẩn…xuất quân đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Chí xin hàng.

Tháng 8 năm 1318, Phạm Ngũ Lão cùng Trần Quốc Chuẩn phụng chỉ vua đi đánh Chiêm Thành. Quân đội ta đại thắng-Vua phong Phạm Ngũ Lão tước quan Nội hầu, ban cho Phi Ngự Phù

Ngày 1 tháng 11 năm Canh Thân ( 1320 ), Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ của vua ban ở vườn cau trong thành Thăng Long, thọ 66 tuổi.Vua phong làm “Thượng đẳng phúc thần”, nghỉ chầu 5 ngày, Thượng hoàng Trần Anh Tông làm bài viếng , có đoạn:


Bạc phạt Xiêm, Lào chiến tráng du

Đương thời danh tướng hãn vi trù

Thành công chi tại năng đông giục

Bất phụ cao ngấm sí Vũ Hầu

Dịch:

Dẹp giặc Lào, Xiêm tỏ tướng tài

Võ thần mấy kẻ được chen vai

Dưới cờ một dạ nên công lớn

Gia Cát trời Nam lại có hai
Tướng quân Phạm Ngũ Lão văn võ toàn tài, trung thành , liêm khiết, Sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn:” Phạm Ngũ Lão học vấn biểu hiện ở câu thơ, không chỉ chuyên về võ mà dùng vinh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa không ai hơn…”.

Trong sách “ Lịch triều hiến chương loại chí” Phan Huy Chú viết:” Phạm Ngũ Lão có tài múa giáo, làm thơ, lập nhiều công to, trước sau giữ trọn danh dự, tiếng tăm rõ rệt. Tóm lại đều không hổ thẹn là bậc nguyên thần

Bút Tích Tiêu Biểu


THUẬT HOÀI
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Thu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Dịch nghĩa:
TỎ LÒNG

Cầm ngang ngọn giáo,giữa non sông đã trải mấy thu

Ba quân như hùm,như sói cái trí hùng muốn nuốt cả sao Ngưu

Làm con trai mà không trả xong nợ công danh

Sẽ phải hổ thẹn khi người ta nói đến chuyện Vũ Hầu


Dịch thơ: 
TỎ LÒNG 

Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân hùng dũng nuốt sao Ngưu

Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu


(Theo Hoàng Việt Thi văn tuyển)

(Bùi Huy Trích.NXB Văn hóa-Hà Nội,1957)

Bình
Âm vang thời đại Đông A với những chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm Ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông đã in dấu trong nhiều trang viết của các nhà thơ đương thời. Phạm Ngũ Lão "đánh đâu thắng đó" cuĩng ghi lại những cảm xúc của mình qua Thuật Hoài - tác phẩm thể hiện rất đẹp hình ảnh và khí thế của người trai thời đại, cũng là tư thế của dân tộc trong những ngày hào hùng ấy.

"Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

Bài thơ chữ Hãn vẻn vẹn 28 chữ đã có một dung lượng thông điệp thẩm mỹ lớn, thể hiện khí phách nhà thơ - dũng tướng. Thi ngôn chính là nội dung tư tưởng của thuật hoài, vịnh hoài và cảm hoài. Nhưng sẽ không thể có cái ung dung hào sảng nếu tách bài thơ ra khỏi không khí thời đại bừng bừng "Sát Thát". Bài thơ không tách rời khỏi quỹ đạo tư tưởng của Nho giáo trong mẫu hình người anh hùng cá nhân phong kiến, nhưng trước hết nó là nỗi lòng của người "một thời tuy đã nên tướng giỏi - chí khí anh hùng vẫn khát khao". Giấc mộng công danh luôn là điều ám ảnh của những kẻ sỹ, đại trượng phu thời phong kiến, đi liền với các tước phong: Công Hầu, Khanh Tướng. Nhưng ở "Thuật Hoài", con người đã được phác bằng bằng những câu thơ có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự cường.

Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lý tưởng trung quân ái quốc hòa hợp trọn vẹn trong tình cảm tâm hồn của nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng lòng, anh em hòa hợp, cả nước ra sức". Tậm tư của Phạm Tướng Quân đã phản chiếu tâm nguyện của bao người trai thời Trần. Ý thức rõ giá trị bản thân, nhận rõ sự gắn bó cá nhân với cộng đồng - dân tộc - đất nước. Xúc cảm hào hùng tỏa sáng trong hình tượng thơ đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về con ngời thời đại Đông A.

Di Tích và Lễ Hội

I.Di Tích

Để tưởng nhớ vị tướng tài danh là người con của quê hương, triều đình đã cho lập đền thờ Tướng quân Phạm Ngũ Lão ngay trên nền nhà cũ của gia đình ông.

Quần thể di tích Lịch sử-Văn hóa đền Phù Ủng được tọa lạc trên mảnh đất quê hương Ân Thi anh hùng và mến khách, đây là một trong những di tích có giá trị về nội dung khoa học, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của dân tộc ta còn lưu lại trên mảnh đất Hưng Yên văn hiến. Cụm di tích được phân bố thành hai khu .

Khu ngoài,bao gồm những lăng, đền, nhà bia,…xắp xếp chung quanh đền thờ Phạm Ngũ Lão.

Khu trong ,bao gồm đền thờ cung phi Tĩnh Huệ, ngôi chùa Cảm Ân và lăng Quốc công Vũ Hồng Lượng.

Từ quốc lộ 38 vào di tích, nhân dân gọi là đường Cán Cờ.Ở khoảng giữa đoạn đường nổi bật lên một bãi đất to giống như lá cờ.Tượng trưng như lá cờ đại dựng cao trước hàng quân sĩ của Tướng quân mỗi khi xuất trận. Ngay phía trước đền có nhiều mô đất to, nhỏ, nhân dân gọi là mô đai, mô cây sòi, mô quả thừng…Tương truyền, đây là nơi tướng quân Phạm Ngũ Lão luyện tập võ nghệ, nghiên cứu binh thư. Phải chăng đây là dấu tích nơi Hưng Đạo Đại Vương gặp Phạm Ngũ Lão trên đường từ Vạn Kiếp về kinh đô Thăng Long.

Đền thờ Phạm Ngũ Lão gồm 5 gian tiền tế và tòa hậu cung, kiến trúc kiểu chồng diêm2 tầng 8 mái. Tương truyền ngôi đền nằm ở vị trí có địa thế đẹp”Thất tinh ứng hậu, hình nhân bái tướng, voi quỳ ngựa phục, bên bút bên nghiên;bên cờ bên kiếm…”.

Bước vào đền thờ Tướng quân Phạm Ngũ Lão, mỗi người chúng ta không khỏi xúc động, dường như được đứng trước khu tượng đài kỷ niệm tưởng nhớ một vị nhân thần có một cuộc đời với những chiến công rạng rỡ. Khói hương huyền ảo và sắc màu vàng son tạo cảm giác thiêng liêng và gần gũi, chứa chan không khí hoài niệm, con người như được trở về thời kỳ oanh liệt hào hùng của lịch sử dân tộc.

Pho tượng lớn nhất trong đền, tạc Đức thánh Phạm, tượng được đúc bằng đồng nặng trên 300 kg tạo tác phong trong tư thế ngồi trên ngai,mặc áo cẩm bào, đầu đội mũ cánh chuồn , tay cầm ngọc quý,gương mặt cương nghị, đôn hậu thể hiện khá rõ nét sắc thái của một dũng tướng, cương trực và từng trải. Chiếc áo cẩm bào đỏ thẫm như ngọn lửa luôn luôn rực cháy từ trái tim nồng nhiệt của ông .Đứng trước vị thánh như thế, lòng thành xin che trở, phù hộ và tâm nguyện phải làm gì để xứng đáng với cha ông.

Cùng thờ trong đền còn có tượng quận chúa Anh Nguyên là vợ Phạm Ngũ Lão.

Nơi đây còn lưu giữ được nhiều hoành phi, câu đối đại tự, sắc phong của các triều đại cùng các hiện vật quý hiếm như ngai, bài vị, ấm chén bạc v.v…nổi bật là 3 bức đại tự “ Phù Ủng linh từ”, “ Đông A Điện súy”, “Vạn tuế phúc thần”…

Đền Mẫu thờ mẹ của Phạm Ngũ Lão kiến trúc thời Nguyễn, gồm 3 giai đoạn tiền tế, hai gian hậu cung, trong đền có tượng mẹ của Tướng quân Phạm Ngũ Lão bằng gỗ và bốn pho tượng người hầu bằng đá thời Trần, tương truyền tượng làm bằng đá lấy từ ải Chi Lăng (Lạng Sơn). Khi Phạm Ngũ Lão làm tướng triều Trần, giặc Nguyên căm tức. Chúng đã bắt mẹ Phạm Ngũ Lão cùng một số dân trong làng đem lên ải Chi Lăng, nhằm ép Phạm Ngũ Lão ra hàng. Bà đã thắt cổ tự vẫn để tỏ rõ khí tiết. Bà được vua tặng bốn chữ “Nghiêm ứng thánh mẫu”, dân làng lập đền thờ gọi là đền Mẫu. Hàng năm, tổ chức cúng giỗ vào ngày 3 tháng 6 âm lịch, ngày bà tuẫn tiết.

Bên phải đền Mẫu có Khuê Văn Các kiến trúc cổ kính 12 mái lợp ngói ống, xưa kia đây là nơi các quan trong triều về tế lễ tới đây bình thơ văn và ngoạn cảnh.

Bên trái đền thờ Phạm Ngũ Lão, có lăng Đức Tiên Công, thân phụ Phạm Ngũ Lão.Lăng được khởi dựng từ thời Trần do Phạm Ngũ Lão xây dựng lăng mộ cho cha mình.Phần chính lăng xây hình chóp long đình, phần mộ hình lục lăng, có thềm đá xung quanh, lăng có tắc môn, cột đồng trụ và hai tam môn 2 bên. Cạnh lăng có ao tầm sét, tục truyền đó là mắt rồng; Khu lăng mộ quanh năm được che phủ dưới bóng mát của những cây cổ thụ có tuổi khoảng từ 200 đến 300 năm.

Cách đền chính không xa ( khu trong ) có chùa Bảo Sơn, tương truyền do Phạm Ngũ Lão xây dựng. Năm 1948, hai chùa bị thực dân Pháp phá hủy chỉ còn lại tam quan hai tầng, tám mái soi bóng xuống dòng sông Cửu An. Năm 1999, nhân dân đầu tư kinh phí phục dựng lại chùa theo kiểu dáng kiến trúc xưa.

Tương truyền Phạm Ngũ Lão có con gái là Tuệ Tĩnh, làm thứ phi vua Trần Anh Tông. Cuối đời bà xin xuất gia tu tại chùa Bảo Sơn, dựng phủ điện phía bên đông chùa, làm nhà riêng ở đằng sau để làm nơi thờ cúng tổ tiên.Khi làm xong,đức Thượng hoàng Trần Minh Tông ngự tới xem ban cho chữ đề biển vàng, đổi tên chùa là “Cảm Ân Tự” . Khi bà mất nhân dân lập đền thờ bà trên nền nhà cũ.Năm 2004, đền thờ cung phi Tĩnh Huệ được trùng tu lại quy mô như ngày nay. Trong đền đặt hương án, đồ thờ, nổi bật là bức tượng Cung phi Tĩnh Huệ và bức đại tự “Hiếu kính toàn đức”.

Trong cụm di tích còn có lăng Quốc công Vũ Hồng Lượng là người làng Phù Ủng, làm quan dưới triều Hậu Lê.Sinh thời ông có công đức tu sửa đền thờ Phạm Ngũ Lão và đặt ra sự lệ cho làng thờ cúng. Lăng Vũ Hồng Lượng được khởi dựng năm Canh Tý ( 1660 ), niên hiệu Vĩnh Thọ thứ3 thời Lê Thần Tông. Đây là một công trình trạm khắc đá nổi tiếng thời Hậu Lê, chạm khắc tinh xảo hình người, con giống và hoa lá.

Về thăm di tích Lịch sử- Văn hóa đền Phù Ủng, cảm nhận đầu tiên của du khách có lẽ đó là vẻ bề thế, khoáng đạt của các hạng mục công trình, đan xen trong từng hạng mục là các cây đại thụ, tạo cho khu di tích một không gian u tịch đượm vẻ linh thiêng.

II.Lễ Hội


Hàng năm, lễ hội truyền thống đền Phù Ủng tổ chức từ ngày 25 tháng chạp, với lễ mục dục ( lau rửa đồ tế khí , tắm tượng ) đảm bảo sạch sẽ, tăng thêm sự linh thiêng. Đêm giao thừa có lễ chúc thánh. Sáng mồng 1 có lễ khai xuân, rước bằng sắc của Phạm Ngũ Lão. Chính hội tổ chức vào ngày 11 tháng giêng âm lịch, tương truyền là ngày Phạm Ngũ Lão ra quân đánh giặc giữ nước, có đại lễ, tế nội tán, ngoại tán- đây là ngày sôi động nhất với nghi thức rước cung phi Tĩnh Huệ từ phủ Chúa về lăng Phạm Tiên Công ( trình ông ) sau đó rước về đền thờ Phạm Ngũ Lão ( trình cha ). Khác với lễ rước kiệu của một số địa phương khác, ở lễ rước kiệu cung phi Tĩnh Huệ người dân cùng với quý khách thập phương chen nhau để được chui qua gầm kiệu. Với một suy nghĩ tâm linh là làm như vậy mọi ước muốn của mình sẽ thành hiện thực(!)

Trong những ngày diễn ra lễ hội, nhiều đội tế các vùng đến tế lễ rất đông. Trong đền chính cung văn hát chầu suốt ngày đêm. Khu vực ngoài đền diễn ra các hoạt động Văn hóa, Thể thao và đặc biệt là các trò chơi vui nhộn diễn lại các tích xưa như:vật cù, hát trống quân, múa rối nước…Đây là điểm hội tụ giao lưu văn hóa vùng, miền tạo nên một không khí lễ hội trang trọng và đậm đà bản sắc dân tộc góp phần nâng cao đời sống văn hóa hướng tới những giá trị chân - thiện - mỹ.
 

 (hát văn)

Bà chúa Cà Phê

Chúa Cà Phê là bà chúa bói người Nùng từ thời thượng cổ (chưa có tài liệu nào ghi chính xác là Chúa Cà Phê giáng hạ dưới thời nào), chỉ biết rằng trong các vị Chúa Bói trên ngàn, bà là người có nhiều quyền phép nhất (có một số quan niệm cho rằng Bà Chúa Cà Phê là Bà Tổ Chúa Bói, tức là bà chúa bói đầu tiên của nước Việt ta), tuy nhiên bà lại sống ẩn dật trong núi, không xuất thế vậy nên ít người biết tới bà, vậy nên bà vẫn phải thỉnh sau Tam Vị Chúa Mường.
Chúa Cà Phê không hay về ngự đồng như Tam Vị Chúa Mường, nhưng nếu có đại tiệc mở đàn Chúa Bói thì người ta cũng hay thỉnh Chúa Bà về. Khi giáng đồng chúa thường mặc áo đen (có nơi hầu Chúa lại mặc áo xanh hoặc áo vàng, tuy nhiên khá ít người hầu chúa mặc màu áo như vậy), chúa về đồng cũng múa mồi.
Đền thờ Bà Chúa Cà Phê ở trong vùng rất hoang vu heo hút (thậm chí còn chưa có mạng lưới điện chạy tới), đó là ngôi đền nhỏ gọi là Đền Chúa Cà Phê ở trong miền Phố Vị, Lạng Sơn. Chúa ít khi ngự đồng nên văn chúa cũng khá ít, chỉ có một hai câu khi thỉnh chúa như:

“ Hách danh Chúa Bói Cà Phê
Lên chơi Phố Vị, trở về Tam Thanh”